Quan Tri

Tư tưởng của Thiên Chúa

Đoạn Tin mừng hôm nay tiếp nối lời tuyên xưng của Phê-rô mà chúng ta cùng nhau suy niệm tuần trước: “ Thấy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Bài Tin mừng cũng cho thấy sự đối lập giữa hai thái độ: Phê-rô từ chối sự thương khó, trong khí đó Chúa Giê-su lại khẳng định không có tình yêu thực sự nếu không có hy sinh. Điều này là xác thực trong những tương quan của tình yêu, của đời sống hôn nhân, trong việc thực hiện một hoài bão và sự nghiệp của con người.

Một số hoàn cảnh đôi khi thật bi thương đã chứng minh rằng tình yêu phải trả giá đắt: ví dụ tha thứ cho một kẻ thù đã làm mình bị thương tật và bị nhục nhã. Yêu thương một người phối ngẫu mặc dù có những bất đồng và bệnh tật. Trung thành trong đời sống hôn nhân gia đình. Giữ mình trung thực và ngay thẳng trong công việc bằng cách tuân giữ những luật lệ làm ăn kinh tế và xã hội. Không bạo động, quậy phá và chống lại quyền lực của tiền bạc. Quyết tâm bảo vệ công lý và sự thật khi mà mọi người lại luồn cúi. Can đảm tuyên xưng đức tin trong một môi trường vô thần và lương dân…cũng như cầu nguyện và tham gia các giờ cầu nguyện trong một xã hội chế nhạo tôn giáo…

Để yêu mến một cách chân thực, cần phải trả giá cho nó. Chúng ta thấy quan niệm của con người thời nay đối lập với tinh thần Tin mừng như:

– Lợi ích trở nên giá trị duy nhất của sự sống

– Thành công mọi giá thống lãnh mọi lãnh vực của đời sống như thể thao, kinh tế và chính trị.

– Lòng tham là thầy của mọi khía cạnh xã hội và của đời sống mọi ngày.

– Tất cả nguyên tắc luân lý bị hủy bỏ để ủng hộ cho thỏa mãn tức thời.

Có một nghiên cứu khẳng định rằng ở Nước Mỹ, hơn 80% thanh niên gian lận trong các kỳ thi. Thống kê này cho thấy tình trạng không khá hơn ở Việt Nam chúng ta. Theo những bạn trẻ này cho biết, thì gian lận là cách thức duy nhất để bảo đảm một tương lai hứa hẹn. Những cách suy nghĩ lệch lạc này lại tiếp tục sau khi hoàn thành việc học và tiếp tục thấm nhiễm vào đời sống của họ.

Bên cạnh những thử thách và khó khăn như thế, thì chúng ta vẫn thấy có biết bao mẫu gương của tình yêu đích thật.

Chuyện kể về một đôi vợ chồng, trong hơn 30 năm đã chăm sóc đứa con gái tàn tật từ khi mới sinh, nó phải ngồi xe lăn và không thể tự ăn uống, và chỉ có thể nói ấp úng vài từ ngữ. Hai vợ chồng còn có hai đứa con gái khác bình thường và mạnh khỏe, nhưng một phần lớn thời gian và sức lực của họ đã phải dành cho đứa con bị tàn tật. Tất cả sinh hoạt của gia đình này đã bị đảo lộn bởi đứa trẻ tàn tật này, nhưng đứa bẽ vẫn sống bình an nhờ vào tình yêu của hai chị gái và bố mẹ nó.

Câu chuyện này là một trong những mẫu gương cho một tình yêu cần đến nghị lực và hy sinh.

Để yêu thương cách chân thực, cần phải hy sinh cho nó dù cách suy nghĩ hôm nay lại hướng chúng ta đến những sự thành công, thỏa mãn, vui thú và tự do theo quan niệm “ muốn làm gì thì làm” chiều theo sự ích kỷ của bản thân mình. Thật là chí lý khi thánh Phao lô viết cho chúng ta trong thư gửi tín hữu Roma: “ Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”. Thiên Chúa làm cho đời sống có giá trị sung mãn và muốn trao ban cho chúng ta một niềm hạnh phúc dựa trên tình yêu, sự tôn trọng người khác và trên quà tặng của chính bản thân mình.

“ Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”, Chúa Giê-su đã nói với Phê-rô trong bài Tin mừng hôm nay như thế. Khi chọn lựa yêu thương, bao gồm sự đau khổ và hy sinh, chúng ta xây dựng một đời sống sung mãn có sức biến đổi thành sự sống đời đời. “ Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì ta sẽ lại tìm thấy mạng sống ấy”. Những hy sinh mà chúng ta làm cho những người mà chúng ta yêu thương, không phải là một sự khoái khổ. Nhưng nó mạng lại giá trị cho sự hiện hữu và cho đời sống một ý nghĩa.

Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho tư tưởng của chúng ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Xin cho mỗi chúng ta cảm nghiệm được mỗi ngày một hơn lời Chúa Giê-su nói với chúng ta: “ Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy…Ai mất mạng sống vì Thầy sẽ giữ được mạng sống ấy.”

Con là đá

Trong tình yêu đôi lứa, đôi uyên ương thường nói với một nửa của mình trong ngày vu quy là: “ Anh (em) yêu, cuộc đời anh (em) thực sự bắt đầu vào ngày gặp em (anh)”. Lời nói như thế là sự phản ảnh quan trọng cho một cuộc gặp gỡ, một cái nhìn, một mời gọi, một nhiệm vụ được trao và được đón nhận trong một cuộc đời…

Thánh Phêrô cũng đã trải qua giây phút quan trọng và quyết định nhất của đời mình, khi mà Chúa Giê-su nói với Phêrô: “ Con là đá, trên đá này thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.

Vào ngày đó, Chúa Giê-su đã chọn ông. Một cái tên mới được đặt cho ông để khởi đầu cho một số phận mới: là trở nên đá tảng, một sự gắn kết cho các anh em.

Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay nói về việc chọn Phêrô và thành lập Giáo Hội, cho thấy ý nghĩa của việc chọn lựa mà Thiên Chúa trao ban cho một con người để thực thi một sứ vụ thiêng liêng cũng như là trần thế.

Câu hỏi đặt ra cho chúng ta ở đây là: Tại sao lại chọn Phêrô ở vùng đất Cêsarê Philiphê? Tại sao lại là Phêrô, chứ không phải là một người khác trong nhóm 12?

Người ta đã có thể nói với Chúa Giê-su:

– Đáng ra Chúa đã có thể chọn gọi một người không chối Chúa trong lúc Chúa bị bắt.

– Đáng ra Chúa đã có thể chọn một người tầm cỡ hơn, thông minh hơn là anh chàng ngư phủ này.

Sự chọn người của Chúa thật là nhiệm mầu trước mắt chúng ta. Chúng ta thường chỉ thấy những gì bên ngoài; còn Thiên Chúa thì lại thấy bên trong tâm hồn;

– Ngài không đặt cái nhìn trên người mà chúng ta cho là tối ưu,

– Ngài lại nhìn vào cái bé nhỏ, không được chú ý, bị lãng quên…như là cậu Đavít nhỏ bé, như Gioan Vianey kém cỏi hay như bao nhiêu người khác…

Việc chọn lựa là nhưng không. Trong suốt chiều dài lịch sử, Thiên Chúa đã chọn những con người mỏng dòn, bất toàn để thực thi chương trình của Ngài mà ngôn sứ Isaia sánh ví là như “ những cái cọc mà người ta cắm trong đất khô” vậy.

Những con người được chọn này đã trả lời “xin vâng” mặc dù có đầy giới hạn. Và họ đã thực hiện những điều huyền diệu. Một số người đã để lại một dấu ấn không thể phai mờ trong tâm trí nhân loại.

Chúa Giê-su đặt Phêrô, như là biểu tượng của những “chìa khóa Nước Trời”. Trao chùm chìa khóa cho một người, có nghĩa là đặt tin tưởng hoàn toàn nơi người đó.

– Phêrô từ nay nhận trách nhiệm cai quản “ Nhà của Thiên Chúa”

– Chúa Giê-su thực hiện một sự trao gửi: Ngài hoàn toàn tin tưởng nơi con người được trao phó.

Phêrô sẽ không chỉ là một người thực hiện, một dây truyền vận, một người truyền lệnh mà thôi. Ngài còn là người điều khiển Giáo Hội. Vào ngày lễ ngũ tuần, Ngài đã thực thi nhiệm vụ với sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Không biết lúc mà Phêrô làm nghề đánh cá ở biển hồ Tibêria, có thể tưởng tượng rằng:

– Mình sẽ lên tiếng rao giảng giữa đám đông đến từ khắp nơi vào buổi sáng lễ Ngũ Tuần

– Mình sẽ đặt trung tâm Giáo hội ở thành Roma

– Mình sẽ làm chứng tá cho đến cả việc trao hiến mạng sống trên một cây thánh giá lộn ngược được dựng lên ở giữa thành đô La mã, trên đồi Vatican

Sự chọn lựa của Chúa Giê-su đã làm cho Phêrô trở thành một người khác, cho điểm đến là ích chung cộng đoàn Giáo hội. Cũng như Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô, một công nhân bình thường đã trở nên người kế vị thánh Phêrô để đánh một dấu mốc quan trọng cho Giáo Hội và thế giới bước vào thiên niên kỷ mới.

“ Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!” Đối với Phêrô, khi nhận biết Thầy Giê-su là Đấng Messia, có nghĩa là nói lên một cam kết bước đi theo Ngài.

Diễn từ về phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giê-su đã làm cho nhiều môn đệ ngã lòng, nhưng Phêrô đã tuyên xưng đầy xác tín: “ Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì Thầy có lời ban sự sống đời đời”.

Không phải là Phêrô cam kết với Chúa, mà chính Chúa đã cam kết với Phêrô và với Giáo hội của Ngài.

– Chúa không nói: “ Phêrô xây Giáo Hội”

– Nhưng Chúa nói: “ Thầy xây Giáo Hội của Thầy”.

Chúa Giê-su Ki-tô là tác giả cho cam kết giữa Chúa với các môn đệ của Ngài, nên chúng ta không sợ hãi khi thấy lịch sử Giáo Hội dù có lúc mong manh. Vì Chúa Giê-su luôn hiện diện và Giáo Hội là nơi biểu lộ sự hiện diện của Chúa cách thường xuyên.

Được gọi và cam kết trong sứ vụ trần thế hay sứ vụ thiêng liêng, chúng ta tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ ở cùng ngay lúc mà Ngài tuyển chọn chúng ta. Vậy chúng ta:

– Đừng làm gì mà không có Chúa

– Đừng thực thi công tác mà quên rằng Chúa đang làm việc với chúng ta.

– Và hãy nhận biết Ngài đang hiện diện “ với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Chúng ta đừng để cho mình đi tới chỗ thất vọng; nhưng hãy tin vào tương lai của Giáo Hội và tương lai của con người được Thiên Chúa yêu thương. Amen.

Không giới hạn

Thánh Mát-thêu đã viết Tin mừng của Ngài cho một cộng đoàn bao gồm các tín hữu gốc Do thái. Những người này có xu hướng bài ngoại và đặt vấn đề về những cách giáo tiếp với những người không thuộc chủng tộc Do thái.

Như Chúa Giê-su nói với người phụ nữ dân ngoại Canaan trong bài Tin mừng: “Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”, thì điều quan trọng với Thiên Chúa, đó không phải là để ý đến cái bên ngoài của một dân tộc, một chủng tộc nhưng là niềm tin và sự phó thác nơi Chúa.

Chúng ta thấy ở Nagiarét, Chúa Giê-su đã không làm một phép lạ nào “vì lý do họ thiếu lòng tin”. Ngài đã nói với Phê-rô khi mà ông bắt đầu chìm xuống biển hồ Galilê rằng: “ người đâu mà kém tin, tại sao anh lại nghi ngờ”. Trái lại, Chúa đã lớn tiếng thán phục người phụ nữ Canaan như sau: “ Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chúa cũng cảm phục như thế đối với niềm tin của ông bách quan Roma: “Ta bảo thật với anh em, trong dân Israen ta không thấy một niềm tin nào mạnh như thế”.

Đức Ki-tô đã đến với những chiên lạc nhà Israen và khi Ngài gửi các môn đệ đầu tiên đi rao giảng Tin mừng, Ngài đã nói với họ: “ Anh em hãy đến với đoàn chiên lạc nhà Israen chứ đứng đến với dân ngoại và những người Samaria”. Nhưng sau đó vào cuối sách Tin mừng của Thánh Mát-thêu, Ngài lại mở rộng và quốc tế hóa sứ vụ: “ Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ và loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Như vậy Chúa bắt đầu sứ vụ rao giảng cho nhà Israen để rồi sau đó là đến với người khác. Đây quả là một sự tiếp cận tuyệt vời trong sứ vụ truyền giáo.

Người phụ nữ Canaan là một trong những hình ảnh biểu tượng nhất của Kinh Thánh. Chị là người duy nhất trong bốn sách Tin mừng đã thắng cuộc tranh luận với Chúa Giê-su. Đối mặt với những người Pharisêu, Xa đốc hay những người La mã, Chúa Giê-su luôn luôn thắng cuộc tranh luận với họ và Ngài còn tránh được những cạm bẫy mà kẻ thù giăng ra đối với Chúa. Nhưng trước người phụ nữ Canaan này, Ngài đã phải thú nhận là bị chị thuyết phục. Người phụ nữ Canaan đáng thương này đã lấy hết can đảm sụp lại dưới chân Chúa Giê-su bất chấp bị mắng mỏ và hắt hủi. Nhưng thái độ này lại nói lên sự quyết tâm, sự khiêm nhường và niềm tin lớn lao làm cho Chúa Giê-su thán phục và thuyết phục Chúa thi ân giáng phúc, giống như niềm tin của viên bách quan người La mã.

Chúng ta hãy đọc lại dụ ngôn người Samaria nhân hậu, câu chuyện về bữa ăn với các người thu thuế, cuộc viếng thăm nhà ông Gia-kêu, giai thoại về người phụ nữ ngoại tình, bữa ăn chia sẻ với một người phong cùi, cuộc gặp gỡ với người phụ nữ samaria ở giếng Gia-cóp, hay những lời nói thiện ý của tên trộm lành cùng chịu đóng đinh với Chúa Giê-su…Những cầu chuyện đó cho thấy Chúa chống lại những phân biệt đối xử.

Thời của Chúa Giê-su cũng không hơn thời chúng ta hôm nay. Thế giới chúng ta cũng vừa trải qua biết bao nhiêu thế kỷ với những phân biệt đối xử có thể nói là tàn bạo nhất.

Như trong thế chiến thứ hai, vì phân biệt chủng tộc với người Do thái mà phát xít Đức đã tàn sát hàng triệu người Do thái. Họ dùng đủ mọi cực hình như tra tấn, bắn giết và cả những phòng hơi ngạt, và trại tập trung để tàn sát.

Ở Nam Phi cũng như ở nước Mỹ đã có không thiếu những phân biệt giữa người da trắng và người da màu. Những người da đen đã từng bị đối xử như những kẻ nô lệ, không có quyền sống bình đẳng với người da trắng…

Vậy có sự phận biệt đối xử nào còn tồn tại trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn mà chúng ta sinh hoạt, trong giáo xứ mà chúng ta là thành viên hay không?

Để chống lại sự phân biệt đối xử, thánh Phao lô cũng đã nêu rõ: “Giữa chúng ta không còn phân biệt nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà”. Trong sách tông đồ công vụ, thánh Phêrô cũng nói: “ “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”.

Có câu chuyện kể rằng trong cuộc nội chiến ở Mỹ, trước sự thắng thế của phe tổng thống Abraham Lincoln, các thân cận của ông đã nói với ông rằng: “Chúa đang đứng về phía chúng ta”. Nhưng đáp lại ông nói với họ trong một đức tin vững mạnh rằng: “anh em đừng nói rằng Thiên Chúa thuộc về phía chúng ta. Anh em hãy cầu nguyện sao cho chúng ta thuộc về Thiên Chúa thì tốt hơn”. Đặt mình thuộc về Chúa, tức là nhận tất cả mọi người như là anh chị em với nhau. Thánh Thomas cũng đã viết: “Ai có đức tin thì sẽ thấy tất cả với cái nhìn của Chúa”.

Sự cảm phục của Chúa Giê-su dành cho chị phụ nữ Canaan mời gọi mỗi chúng ta hôm nay suy tư về những sự phân biệt đối xử còn tồn tại trong lòng chúng ta và giữa chúng ta với nhau, để từ đó cũng xin Chúa chỉ dẫn cho chúng ta biết đón nhận và cộng tác với những anh chị em khác biệt với chúng ta. Amen.

Vội vã lên đường

Khi chúng ta đọc các sách Tin mừng và các sách của Tân Ước, chúng ta sẽ thấy các đoạn nói về Giáng sinh, Phục sinh, Lên trời của Chúa Giê-su và biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Nhưng không có đoạn nào nói về việc Đức Mẹ lên trời. Vậy ngày lễ mà chúng ta mừng kính hôm nay không được viết trong Kinh Thánh, cũng như là rút ra từ những nghiên cứu của các nhà thần học, mà chính là các Ki-tô hữu đã cử hành ngày lễ này. Họ không thể tin rằng Chúa Ki-tô phục sinh mà lại để cho thân xác của Mẹ mình ở nơi lòng đất được.

Đó cũng là lý do mà ngày lễ này đã được cử hành và thế kỷ thứ V trong Giáo Hội. Và ngày 01/11/1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời: “Chúng Tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác”. Khi công bố tín điều này là Ngài xác nhận truyền thống đã tin nhận về việc Đức Mẹ đi vào trong vinh quang thiên quốc cả hồn và xác.

Đây chính là một ngày lễ đặc biệt mà tất cả các ki-tô hữu được mời gọi mừng kính. Đáp lại lời mời gọi này như chúng ta thấy trong những ngày này mọi người già cả, lớn bé đều tụ họp nhau đông đảo trong các Đền Thánh dâng kính Đức Mẹ như ở Lộ Đức, Fatima, hay ở La Vang tại Việt Nam chúng ta, cũng như nhiều nơi hành hương khác. Tất cả mọi con cái Mẹ đều hướng về Mẹ để cầu xin Mẹ.

Với niềm sùng kính Mẹ Maria như thế mà các bài đọc Kinh Thánh hôm nay mang lại cho mỗi chúng ta những lời dạy quan trọng. Trước hết là bài đọc trong sách Khải huyền. Đây là câu chuyện đã được viết trong thời gian bách hại, nên đoạn văn được viết ra trong một ngôn ngữ biểu tượng mà chỉ các tín hữu mới hiểu được. Người phụ nữ được nói đến trong câu chuyện đại diện cho cộng đoàn do thái vẫn giữ niềm trung tín và đang mong đợi Đấng Messia. Người nữ này sẽ sinh ra người con như lời hứa, đấng sẽ cứu dân Người. Sức mạnh của thần dữ sẽ không có quyền năng gì trên Ngài. Quả vậy, Đức Giê-su Ki-tô phục sinh chính là Đấng Messia, là Đấng Chiến Thắng sự dữ và sự chết.

Bài đọc này được đọc trong ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời, cho thấy cái nhìn của tác giả muốn nhắm tới Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ đã sinh Đấng Cứu Thế cho loài người. Và cách nhiệm mầu Mẹ được hứa ban cho ngày gặp gỡ Thiên Chúa. Đó cũng là sứ điệp mà Thánh Phaolô đã gửi tới cộng đoàn Corintô trong bài đọc II. Thánh Phaolô nhấn mạnh về hoa quả đến từ sự phục sinh của Đức Ki-tô. Đức Ki-tô không sống lại cho riêng mình nhưng cho tất cả nhân loại. Bởi cái chết và phục sinh mà Đức Ki-tô đã đã mở ra cho chúng ta một sự vượt qua để tiến về Nước Trời. Mẹ Maria là hoa quả đầu mùa của những người sống lại. Mẹ đã tham dự cách hoàn hảo nhất vào sự sống lại của con Mẹ.

Biến cố thăm viếng trong bài Tin mừng của Thánh Luca mà chúng ta vừa nghe đã được chọn cho ngày lễ hôm nay là vì lời kinh tạ ơn mà Mẹ đã ca lên và chúng ta cũng được mời gọi hát lên với Mẹ. Như bà Êlisabét và như Mẹ Maria, chúng ta cùng cất lên lời tuyên xưng: phúc cho người đã tin. Mẹ Maria dạy chúng ta: để có đức tin, không chỉ là có những ý tưởng, những tín thác xuống mà con là “lập tức trỗi dậy và lên đường”. Chính Mẹ đã làm chứng cho một niềm tin nơi Chúa khi Mẹ đã từ bỏ tất cả cho Thánh Ý Chúa.

Điều làm chúng ta chú ý đặc biệt nơi Mẹ, đó là Mẹ đã vội vã lên đường tới nhà người chị họ. Trong Kinh Thánh, có một từ ngữ thường lặp lại, đó là từ ngữ “ lập tức”. Từ ngữ này cho thấy một khía cạnh khác của đức tin. Đó là sự đáp trả cho lời mời gọi của Chúa. Sự đáp trả ngay lập tức. Mẹ đã lập tức và lên đường vội vã. Hôm nay chúng ta kêu xin Mẹ và ngay lập tức Mẹ sẽ đến với chúng ta cùng với Chúa Giê-su trong Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ của chúng ta. Chính Đức Giê-su đã ủy thác vai trò này cho Mẹ khi nói với Gioan: đây là Mẹ con và với Mẹ Maria: đây là con Mẹ. Và qua Gioan, tất cả nhân loại đã được Chúa Giê-su trao phó cho Mẹ. Vậy chúng ta đừng ngại ngùng mà không mời Mẹ đến với mỗi chúng ta trong mọi giây phút của đời mình.

Vậy trong ngày hôm nay, chúng ta hãy trao phó cho Mẹ tất cả mọi gia đình, cách riêng những gia đình đang gặp khó khăn, thử thách và đau khổ. Chúng ta cũng xin Mẹ nâng đỡ và ủi an các nạn nhân của chiến tranh, khủng bố, nạn đói, thất nghiệp và những hoàn cảnh đau thương. Mẹ đã đứng dưới chân thập giá của Con Mẹ, nên Mẹ cũng ở bên tất cả những ai đang đau khổ. Với Mẹ và với Đức Giê-su, những cuộc viếng thăm của chúng ta sẽ mang Chúa Giê-su đến với những anh chị em xunh quanh.

Sau đây chúng ta sẽ bước vào phần phụng vụ Thánh Thể. Trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su cùng với Mẹ đến viếng thăm mỗi chúng ta. Chúa Ki-tô Thánh Thể đến và cự ngụ trong lòng chúng ta khi chúng ta đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Ước gì cuộc gặp gỡ này ban cho chúng ta tràn đầy niềm vui, hạnh phúc và bình an như trong cuộc gặp gỡ đã ban tràn đầy niềm vui cho Mẹ Maria và bà chị họ Elisabet. Amen.

Đừng sợ

Tất cả các nhà chú giải kinh thánh từ những thế kỷ đầu tiên đều thấy nơi con thuyền bị sóng và gió làm chao đảo, là biểu tượng cho Giáo Hội đang ở giữa cơn giông tố. Khi thánh Mat-thêu viết Tin mừng, các cộng đoàn Ki-tô hữu thực sự đang giống như chiếc thuyền đang chơi vơi trên biển do sự bách hại của đế quốc Roma. Các nhà cầm quyền Rôma trấp áp họ và các vị lãnh đạo tôn giáo do thái truy lùng họ nơi các hội đường. Cũng như xẩy ra những sự bất đồng giữa các cộng đoàn ki-tô giáo, giữa những tín hữu gốc do thái và gốc hy lạp.

Câu chuyện bão tố là một câu chuyện tràn đầy hình ảnh và biểu tượng, áp dụng cho những thời gian khó khăn thời thánh sử Mát-thêu cũng như những hoàn cảnh hiện tại của Giáo hội hôm nay. Ngày hôm nay, một lần nữa bão tố lại đến với chúng ta. Thế giới mà chúng ta đang sống bị bao trùm bởi chiến tranh, tranh chấp giữa các đảng phái chính trị, khủng bố, dịch bệnh, nạn đói, động đất, cháy rừng, lụt lội…các cănh bệnh đủ loại, kinh tế lạm phát, thất nghiệp, ma túy, mãi dâm, bạo lực, lạm dụng tình dục gia tăng. Giáo hội đang ở trọng một thời kỳ chậm tiến và có vẻ như đối diện với những vấn đề khó vượt qua: ví dụ như ngày càng ít người đi thờ đi lễ, ít người sống đạo, nhiều nhà thờ phải đóng cửa và con số linh mục ngày càng giảm sút.

Những khó khăn thử thách trên là những cơn giông tố mà Giáo Hội đang gặp phải. Và có vẻ như Chúa nhắm mắt bưng tai trước những gì đang xẩy trên thế giới này. Tuy nhiên thì chính Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ khi xưa rằng: Can đảm lên, Thầy đây, đừng sợ! Thầy ở đây cùng các con.”

Phêrô như là người đại diện cho tất cả chúng ta, đã làm một hành động dũng cảm khi xin Chúa Giê-su cho đi trên mặt biển để đến với Chúa, nhưng niềm tin của ông không đủ mạnh. Sự sợ hãi xâm chiếm ông và ông bị chìm xuống. Chúa Giê-su đã phải nói với ông: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Và Ngài đã phải đưa tay ra đỡ ông lên thuyền.

Thật là thú vị khi nói tới hoàn cảnh của Phê-rô lúc này, người đã hoài nghi và cố gắng bước đi trên biển động, người đã chối Chúa những lại là người được chọn làm thủ lãnh Giáo Hội. Phê-rô sẽ có nhiệm vụ “ củng cố anh chị em mình trong đức tin”. Điều đó muốn nói với chúng ta rằng niềm tin của chúng ta không dựa trên các vị lãnh đạo của Giáo Hội, là những người phàm và yếu đuối, nhưng là trên chính Đức Ki-tô, là Đấng trao ban bình an cho cộng đoàn ki-tô giáo trải qua những giông tố của cuộc đời.

Đức tin là một cuộc chiến đấu chống lại những nghi ngờ và sợ hãi. Phêrô, là người đầu tiên của những kẻ tin, không được chọn vì những phẩm chất cá nhân. Sau tất cả những tuyên xưng đức tin của Ngài, chúng ta thấy Ngài đã bỏ chạy khi Ngài đã chối Chúa Giê-su ba lần: tôi không biết người này. Giữa những nghi ngờ và sợ hãi, vị tông đồ cả hôm nay đã cầu nguyện năn nỉ: “ Lạy Thầy, xin cứu con với”. Cũng như là mỗi chúng ta, vị Giáo Hoàng đầu tiên đã có một niềm tin mong manh, đầy nỗi sự hãi. Tuy nhiên, khi Đức Giê-su ở với Ngài, khi Chúa cầm lấy tay Ngài, Ngài đã cảm thấy sự an toàn. Trong thế giới đang quay cuồng này, Đức Ki-tô cũng đang có đó ở giữa những con giông tố bão bùng, Ngài vẫn là nguồn mạch của sự bình an.

Trong một giây phút nào đó của đời sống, chúng ta không thấy tương lai, vì những thất bại, những căn bệnh hiểm nghèo, những tang tóc xẩy đến, những vấn đề gia đình và các khó khăn đủ loại. Trong bóng đêm đen như thế, chúng ta như đang ở trên con thuyền bị sóng đánh, dưới những cơn gió thổi ngược. Và Chúa Giê-su Ki-tô lại nhắc chúng ta: “ Thầy đây, đừng sợ, thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài luôn giang tay nâng đỡ chúng ta khỏi bị vùi dập bởi những cơn sóng lớn. Vào buổi tối thứ Năm tuần Thánh, chính Chúa đã nói với các môn đệ rằng: “Thầy đề lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con, nhưng thầy không ban cho các con bình an như thế gian ban tặng. Tâm hồn các con đừng xao xuyến và sợ hãi.”

Vậy mỗi Chúa nhật, chúng ta lại có dịp tụ họp nhau tại Nhà thờ để cảm nghiệm sự hiện diện này của Chúa Ki-tô trong đời sống chúng ta và mỗi chúa nhật, Ngài sẽ nhắc chúng ta điều mà Ngài đã nói với các tông đồ trên mặt biển giông tố rằng: Can đảm lên, Thầy đây, Đừng sợ! Amen.