Đời sống đức tin

Vườn nho của Chúa

Trong cuốn sách: “ Năm chiếc bánh và hai con cá”, người tôi tớ Chúa là Đức cố HY FX. Nguyễn Văn Thuận khi viết về tình thương của Thiên Chúa, ngài đã nêu lên 10” khuyết điểm’ của TC, trong đó có một khuyết điểm nói về việc “TC không biết làm toán”: Một con chiên mà hơn 99, hẳn Chúa Giêsu không biết làm toán! = hôm nay, Chúa Giêsu khi trình bày dụ ngôn Ông Chủ Vườn nho cũng cho chúng ta thấy cách suy nghĩ và đối xử lạ lùng của Chúa, vì “Thiên Chúa tính toán bằng tình thương và đo lường bằng sự độ lượng“.

1. Như vậy, điểm thứ nhất ta cùng chia sẻ với nhau về tình thương của Chúa được kín múc từ Lời Chúa nói với ta trong bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, có 4 câu, 4 câu này đều chí lý và cần thiết, đáng thuộc lòng, xin trích dẫn 2 câu đó là: “Hãy tìm kiếm Chúa lúc còn tìm kiếm được, hãy kêu cầu Ngài lúc Chúa còn ở gần bên ta…” (c 6). Điều này có nghĩa là mỗi người chúng ta như một người làm vườn nho cho Chúa hãy biết tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi thời giờ, mọi tài năng va sức lực để dâng hiến cho TC bởi vì cơ hội Thiên Chúa ban cho chúng ta không nhiều, cũng không ít, tùy sự đón nhận và lòng chân thành đáp trả của chúng ta. Mỗi người cũng chỉ nhận “một đồng” mà thôi.

2. Điểm thứ hai, ta cùng nhận ra tình thương của Chúa qua chứng tá của thánh Phao lô trong bài đọc II: Thánh nhân đã nhận được sự bao dung của TC qua biến cố ngã ngựa, để rồi thánh nhân qua cuộc gặp gỡ với Chúa Giê su đã làm thay đổi cuộc sống của ngài, ngài được biến đổi trở thành con người mới đến nỗi ngài xác tín: “Đối với tôi sống là Đức Kitô, còn chết là một mối lợi”, điều đó có nghĩa là đối với thánh Phaolô, cả cuộc đời ngài đã được dâng hiến cho Chúa. Nếu Chúa cho sống ngày nào thì ngài sẽ dùng mọi ân ban để làm chứng tá cho Đức Ki tô, còn nếu Chúa cho chết thì cuộc đời ngài cũng thuộc về Đức Ki tô và còn niềm vui nào hơn là được trở với với Chúa Ki tô là lý tưởng sống của Ngài: Tôi sống không phải là tôi sống mà chính Chúa Ki tô sống trong tôi.

3. Từ đó chúng ta chia sẻ với nhau điểm thứ ba qua bài Tin mừng để từ cảm nghiệm của Thánh Phaolô, ta thấy và hiểu Lời của Chúa, việc Chúa trả công cho người đi làm sớm cũng như đi làm muộn bằng một đồng, cho chúng ta thấy sự công bằng của Thiên Chúa khác với sự toan tính của phàm nhân. Tình thương của Thiên Chúa thì đủ cho mỗi một con người chúng ta. Thiên Chúa không mắc nợ ai.

Vậy, mỗi người chúng ta hãy biết nhận ra tình thương của Thiên Chúa và đừng bao giờ giam hãm Thiên Chúa cho toan tính cá nhân và theo cái nhìn thiển cận của của mình, bởi vì như Lời Chúa nói: ““ … Tư tưởng của Ta không phải đường lối của phàm nhân. Đường lối của Chúa không phải đạo lộ của các ngươi. Vì trời cao hơn đất thế nào, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của các ngươi như vậy” ( Is 55, 8-9).

Mỗi người chúng ta hôm nay hãy biết mở rộng lòng mình để đón nhận tình thương của Chúa trong mỗi phút giây, biết mở to hơn đôi mắt tâm hồn để ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình mà có cái nhìn đầy lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa đối với anh chi em xung quanh.

Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó : có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả. Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó McCarthy rất hối hận vì đã vội kết án những con người tội nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau :

Lạy Chúa, tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi, bởi vì trí óc chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội. Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn. Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác. Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công. Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.

Tha thứ

Lời Chúa Chúa nhật XXIV hôm nay cho chúng ta thấy đối với sự xúc phạm đã gây ra cho một ai đó, sẽ có 3 dạng phản ứng như sau:

Phản ứng thứ nhất là trả thù tối đa. Trong Kinh Thánh, việc trả thù sánh ví như là một con thú hoang nằm phục ở cửa nhà, sẵn sàng xông ra nhe nanh và giương móng vuốt tán công (St 4, 7). Con thú hoang có thể là hình ảnh của bất cứ ai nuôi trong mình sự trả thù. Phản xạ đầu tiên của ngừoi bị tấn công đó là muốn trả thù gấp trăm, gấp ngàn lần cho hả dạ. Như trong chương IV của sách Sáng thế, ông La-méc đã có bài ca mang đầy âm vang của sự báo thù: “ A-đa và Xi-la, hãy nghe tiếng ta! Thê thiếp của La-méc, hãy lắng tai nghe lời ta! Vì một vết thương, ta đã giết một người, vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ. Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy! “

Trả thù cách điên cuồng tiếp tục tới cả thời nay, đây đó vẫn còn cái luật báo thù man dợ: như những vụ tấn công của Bil Laden vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại thành phố New York đã giết chết 3000 nghìn người; thời thế chiến thứ hai, phát xít Đức xả súng giết 10 người dân thường để trả thù cho 1 lính Đức bị giết; hay 6 triệu người Do thái đã bị giết bởi kỳ thị chủng tộc vì đơn giản họ là người Do Thái… Sự trả thù man dợ vẫn tồn tại ngày đêm và tiếp tục gây ra bởi ngay cả những người dân bình thường: ví dụ như vụ xẩy ra ở Bình Phước, cách đây 8 năm trước, vì thù hận trong tình yêu mà Nguyễn Hải Dương đã giết cả nhà 6 mạng người.

Phản ứng thứ hai: là thực thi luật “mắt đền mắt, răng đền răng”. Trong Kinh thánh gọi là luật Talion. Vào thế kỷ thứ 18 trước CN, do nhận thấy việc báo thù man rợ mỗi ngày một tăng cao nên vua Hammurabi của Babilon đã ban hành luật “miếng trả miếng” này để giới hạn số người chết do việc trả thù gây ra. Theo luật này, người ta có thể trả thù nhưng “ phải tôn trọng mức độ nghiệm trọng của tội ác”. Đây là một sự tiến bộ của chuẩn mực xã hội, và còn được áp dụng hôm nay như án tử hình.

Cuối cùng là phản ứng thứ ba: tha thứ đến 70 lần 7. Trong truyền thống Do thái, có một cách hành xử đối với kẻ xúc phạm mình, cách hành xử này đã phần nào cho thấy lòng bao dung hơn nhiều, đó là người bị xúc phạm được mời gọi “ phải tha thứ cho kẻ xúc phạm mình đến 4 lần”. Tông đồ Phêrô thấm nhuần truyền thống này, nên ông đã nâng số lần tha thứ lên tới con số 7 để chứng tỏ với Chúa Giê-su về lòng quảng đại của ông nhiều hơn tiêu chuẩn là 4 lần. Và câu trả lời của Chúa Giê-su đã làm cho Phêrô và mọi người ngạc nhiên khi Chúa nói: người ta phải tha thứ không chỉ là 7 lần mà là 70 lần 7, có nghĩa là không có giới hạn cho việc tha thứ của chúng ta. Một cách ngẫu nhiên Chúa Giê-su đã viện dẫn lại bài ca của ông La-méc trong sách Sáng Thế mà chúng ta vừa chia sẻ ở trên ở theo chiều ngược lại: thay vì như ông La-méc trả thù 70 lần 7 kẻ xúc phạm mình thì Chúa mời gọi tha thứ 70 lần 7.

Hôm nay Chúa Giê-su nhắc lại cho chúng ta trong Tin mừng rằng, nhờ vào việc tha thứ, chúng ta sẽ chọn cho mình sự phán xét lúc lìa đời khi đứng trước vị Thẩm Phán Tối Cao là Thiên Chúa: “Anh em hãy tha thứ để được thứ tha”; Hay “ Anh em đong đấu nào thì sẽ bị đong trả lại cho anh em bằng đấu ấy”; “ Thiên Chúa sẽ tha nợ cho anh em cũng như anh em tha kẻ có nợ anh em”

Tha thứ là một cách thức giúp cho người khác quay trở về với sự sống, coi anh chị em xung quanh như một người anh em, một người bạn như người cha nhân hậu nói với đứa con cả đi làm đồng về rằng: “ Em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.

Tha thứ là nền tảng của đời sống của những người con cái Chúa, bởi vì nó cho phép đi vào trong thế giới của tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa với lời mời gọi: “ Anh em hay nên trọng lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5, 48) và thánh Luca cũng viết trong Tin mừng của Ngài: “ Anh em hãy thương xót như Cha anh em trên trời có lòng thương xót”. (Luc 6, 36)

Đối với Chúa Giê-su , tha thứ và hòa giải thì quan trọng hơn là của lễ toàn thiêu: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.

Chúng ta thấy hiện nay đã có biết bao nhiêu tai họa trong gia đình xẩy ra chỉ vì lý do duy nhất, đó là không biết tha thứ cho nhau: khi có những xung đột gia đình, việc ly thân, li dị và phân chia tài sản….

Chúa Giê-su đã yêu cầu Phêrô và các môn đệ tha thứ không giới hạn bởi vì chính Ngài đã làm mẫu gương khi chịu đóng đinh trên cây thập giá: “ Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm mà chẳng biết”. Ngài nhắc lại hôm nay cho mỗi người chúng ta rằng tha thứ là đặc tính quan trọng nhất của mỗi tín hữu: tha thứ không phải là bẩy lần mà là bẩy mươi lần bẩy”. Amen.

Tư tưởng của Thiên Chúa

Đoạn Tin mừng hôm nay tiếp nối lời tuyên xưng của Phê-rô mà chúng ta cùng nhau suy niệm tuần trước: “ Thấy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Bài Tin mừng cũng cho thấy sự đối lập giữa hai thái độ: Phê-rô từ chối sự thương khó, trong khí đó Chúa Giê-su lại khẳng định không có tình yêu thực sự nếu không có hy sinh. Điều này là xác thực trong những tương quan của tình yêu, của đời sống hôn nhân, trong việc thực hiện một hoài bão và sự nghiệp của con người.

Một số hoàn cảnh đôi khi thật bi thương đã chứng minh rằng tình yêu phải trả giá đắt: ví dụ tha thứ cho một kẻ thù đã làm mình bị thương tật và bị nhục nhã. Yêu thương một người phối ngẫu mặc dù có những bất đồng và bệnh tật. Trung thành trong đời sống hôn nhân gia đình. Giữ mình trung thực và ngay thẳng trong công việc bằng cách tuân giữ những luật lệ làm ăn kinh tế và xã hội. Không bạo động, quậy phá và chống lại quyền lực của tiền bạc. Quyết tâm bảo vệ công lý và sự thật khi mà mọi người lại luồn cúi. Can đảm tuyên xưng đức tin trong một môi trường vô thần và lương dân…cũng như cầu nguyện và tham gia các giờ cầu nguyện trong một xã hội chế nhạo tôn giáo…

Để yêu mến một cách chân thực, cần phải trả giá cho nó. Chúng ta thấy quan niệm của con người thời nay đối lập với tinh thần Tin mừng như:

– Lợi ích trở nên giá trị duy nhất của sự sống

– Thành công mọi giá thống lãnh mọi lãnh vực của đời sống như thể thao, kinh tế và chính trị.

– Lòng tham là thầy của mọi khía cạnh xã hội và của đời sống mọi ngày.

– Tất cả nguyên tắc luân lý bị hủy bỏ để ủng hộ cho thỏa mãn tức thời.

Có một nghiên cứu khẳng định rằng ở Nước Mỹ, hơn 80% thanh niên gian lận trong các kỳ thi. Thống kê này cho thấy tình trạng không khá hơn ở Việt Nam chúng ta. Theo những bạn trẻ này cho biết, thì gian lận là cách thức duy nhất để bảo đảm một tương lai hứa hẹn. Những cách suy nghĩ lệch lạc này lại tiếp tục sau khi hoàn thành việc học và tiếp tục thấm nhiễm vào đời sống của họ.

Bên cạnh những thử thách và khó khăn như thế, thì chúng ta vẫn thấy có biết bao mẫu gương của tình yêu đích thật.

Chuyện kể về một đôi vợ chồng, trong hơn 30 năm đã chăm sóc đứa con gái tàn tật từ khi mới sinh, nó phải ngồi xe lăn và không thể tự ăn uống, và chỉ có thể nói ấp úng vài từ ngữ. Hai vợ chồng còn có hai đứa con gái khác bình thường và mạnh khỏe, nhưng một phần lớn thời gian và sức lực của họ đã phải dành cho đứa con bị tàn tật. Tất cả sinh hoạt của gia đình này đã bị đảo lộn bởi đứa trẻ tàn tật này, nhưng đứa bẽ vẫn sống bình an nhờ vào tình yêu của hai chị gái và bố mẹ nó.

Câu chuyện này là một trong những mẫu gương cho một tình yêu cần đến nghị lực và hy sinh.

Để yêu thương cách chân thực, cần phải hy sinh cho nó dù cách suy nghĩ hôm nay lại hướng chúng ta đến những sự thành công, thỏa mãn, vui thú và tự do theo quan niệm “ muốn làm gì thì làm” chiều theo sự ích kỷ của bản thân mình. Thật là chí lý khi thánh Phao lô viết cho chúng ta trong thư gửi tín hữu Roma: “ Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”. Thiên Chúa làm cho đời sống có giá trị sung mãn và muốn trao ban cho chúng ta một niềm hạnh phúc dựa trên tình yêu, sự tôn trọng người khác và trên quà tặng của chính bản thân mình.

“ Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”, Chúa Giê-su đã nói với Phê-rô trong bài Tin mừng hôm nay như thế. Khi chọn lựa yêu thương, bao gồm sự đau khổ và hy sinh, chúng ta xây dựng một đời sống sung mãn có sức biến đổi thành sự sống đời đời. “ Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất mạng sống mình vì ta sẽ lại tìm thấy mạng sống ấy”. Những hy sinh mà chúng ta làm cho những người mà chúng ta yêu thương, không phải là một sự khoái khổ. Nhưng nó mạng lại giá trị cho sự hiện hữu và cho đời sống một ý nghĩa.

Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho tư tưởng của chúng ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Xin cho mỗi chúng ta cảm nghiệm được mỗi ngày một hơn lời Chúa Giê-su nói với chúng ta: “ Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy…Ai mất mạng sống vì Thầy sẽ giữ được mạng sống ấy.”

Con là đá

Trong tình yêu đôi lứa, đôi uyên ương thường nói với một nửa của mình trong ngày vu quy là: “ Anh (em) yêu, cuộc đời anh (em) thực sự bắt đầu vào ngày gặp em (anh)”. Lời nói như thế là sự phản ảnh quan trọng cho một cuộc gặp gỡ, một cái nhìn, một mời gọi, một nhiệm vụ được trao và được đón nhận trong một cuộc đời…

Thánh Phêrô cũng đã trải qua giây phút quan trọng và quyết định nhất của đời mình, khi mà Chúa Giê-su nói với Phêrô: “ Con là đá, trên đá này thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.

Vào ngày đó, Chúa Giê-su đã chọn ông. Một cái tên mới được đặt cho ông để khởi đầu cho một số phận mới: là trở nên đá tảng, một sự gắn kết cho các anh em.

Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay nói về việc chọn Phêrô và thành lập Giáo Hội, cho thấy ý nghĩa của việc chọn lựa mà Thiên Chúa trao ban cho một con người để thực thi một sứ vụ thiêng liêng cũng như là trần thế.

Câu hỏi đặt ra cho chúng ta ở đây là: Tại sao lại chọn Phêrô ở vùng đất Cêsarê Philiphê? Tại sao lại là Phêrô, chứ không phải là một người khác trong nhóm 12?

Người ta đã có thể nói với Chúa Giê-su:

– Đáng ra Chúa đã có thể chọn gọi một người không chối Chúa trong lúc Chúa bị bắt.

– Đáng ra Chúa đã có thể chọn một người tầm cỡ hơn, thông minh hơn là anh chàng ngư phủ này.

Sự chọn người của Chúa thật là nhiệm mầu trước mắt chúng ta. Chúng ta thường chỉ thấy những gì bên ngoài; còn Thiên Chúa thì lại thấy bên trong tâm hồn;

– Ngài không đặt cái nhìn trên người mà chúng ta cho là tối ưu,

– Ngài lại nhìn vào cái bé nhỏ, không được chú ý, bị lãng quên…như là cậu Đavít nhỏ bé, như Gioan Vianey kém cỏi hay như bao nhiêu người khác…

Việc chọn lựa là nhưng không. Trong suốt chiều dài lịch sử, Thiên Chúa đã chọn những con người mỏng dòn, bất toàn để thực thi chương trình của Ngài mà ngôn sứ Isaia sánh ví là như “ những cái cọc mà người ta cắm trong đất khô” vậy.

Những con người được chọn này đã trả lời “xin vâng” mặc dù có đầy giới hạn. Và họ đã thực hiện những điều huyền diệu. Một số người đã để lại một dấu ấn không thể phai mờ trong tâm trí nhân loại.

Chúa Giê-su đặt Phêrô, như là biểu tượng của những “chìa khóa Nước Trời”. Trao chùm chìa khóa cho một người, có nghĩa là đặt tin tưởng hoàn toàn nơi người đó.

– Phêrô từ nay nhận trách nhiệm cai quản “ Nhà của Thiên Chúa”

– Chúa Giê-su thực hiện một sự trao gửi: Ngài hoàn toàn tin tưởng nơi con người được trao phó.

Phêrô sẽ không chỉ là một người thực hiện, một dây truyền vận, một người truyền lệnh mà thôi. Ngài còn là người điều khiển Giáo Hội. Vào ngày lễ ngũ tuần, Ngài đã thực thi nhiệm vụ với sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Không biết lúc mà Phêrô làm nghề đánh cá ở biển hồ Tibêria, có thể tưởng tượng rằng:

– Mình sẽ lên tiếng rao giảng giữa đám đông đến từ khắp nơi vào buổi sáng lễ Ngũ Tuần

– Mình sẽ đặt trung tâm Giáo hội ở thành Roma

– Mình sẽ làm chứng tá cho đến cả việc trao hiến mạng sống trên một cây thánh giá lộn ngược được dựng lên ở giữa thành đô La mã, trên đồi Vatican

Sự chọn lựa của Chúa Giê-su đã làm cho Phêrô trở thành một người khác, cho điểm đến là ích chung cộng đoàn Giáo hội. Cũng như Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô, một công nhân bình thường đã trở nên người kế vị thánh Phêrô để đánh một dấu mốc quan trọng cho Giáo Hội và thế giới bước vào thiên niên kỷ mới.

“ Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống!” Đối với Phêrô, khi nhận biết Thầy Giê-su là Đấng Messia, có nghĩa là nói lên một cam kết bước đi theo Ngài.

Diễn từ về phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giê-su đã làm cho nhiều môn đệ ngã lòng, nhưng Phêrô đã tuyên xưng đầy xác tín: “ Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì Thầy có lời ban sự sống đời đời”.

Không phải là Phêrô cam kết với Chúa, mà chính Chúa đã cam kết với Phêrô và với Giáo hội của Ngài.

– Chúa không nói: “ Phêrô xây Giáo Hội”

– Nhưng Chúa nói: “ Thầy xây Giáo Hội của Thầy”.

Chúa Giê-su Ki-tô là tác giả cho cam kết giữa Chúa với các môn đệ của Ngài, nên chúng ta không sợ hãi khi thấy lịch sử Giáo Hội dù có lúc mong manh. Vì Chúa Giê-su luôn hiện diện và Giáo Hội là nơi biểu lộ sự hiện diện của Chúa cách thường xuyên.

Được gọi và cam kết trong sứ vụ trần thế hay sứ vụ thiêng liêng, chúng ta tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ ở cùng ngay lúc mà Ngài tuyển chọn chúng ta. Vậy chúng ta:

– Đừng làm gì mà không có Chúa

– Đừng thực thi công tác mà quên rằng Chúa đang làm việc với chúng ta.

– Và hãy nhận biết Ngài đang hiện diện “ với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Chúng ta đừng để cho mình đi tới chỗ thất vọng; nhưng hãy tin vào tương lai của Giáo Hội và tương lai của con người được Thiên Chúa yêu thương. Amen.

Không giới hạn

Thánh Mát-thêu đã viết Tin mừng của Ngài cho một cộng đoàn bao gồm các tín hữu gốc Do thái. Những người này có xu hướng bài ngoại và đặt vấn đề về những cách giáo tiếp với những người không thuộc chủng tộc Do thái.

Như Chúa Giê-su nói với người phụ nữ dân ngoại Canaan trong bài Tin mừng: “Lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy”, thì điều quan trọng với Thiên Chúa, đó không phải là để ý đến cái bên ngoài của một dân tộc, một chủng tộc nhưng là niềm tin và sự phó thác nơi Chúa.

Chúng ta thấy ở Nagiarét, Chúa Giê-su đã không làm một phép lạ nào “vì lý do họ thiếu lòng tin”. Ngài đã nói với Phê-rô khi mà ông bắt đầu chìm xuống biển hồ Galilê rằng: “ người đâu mà kém tin, tại sao anh lại nghi ngờ”. Trái lại, Chúa đã lớn tiếng thán phục người phụ nữ Canaan như sau: “ Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Chúa cũng cảm phục như thế đối với niềm tin của ông bách quan Roma: “Ta bảo thật với anh em, trong dân Israen ta không thấy một niềm tin nào mạnh như thế”.

Đức Ki-tô đã đến với những chiên lạc nhà Israen và khi Ngài gửi các môn đệ đầu tiên đi rao giảng Tin mừng, Ngài đã nói với họ: “ Anh em hãy đến với đoàn chiên lạc nhà Israen chứ đứng đến với dân ngoại và những người Samaria”. Nhưng sau đó vào cuối sách Tin mừng của Thánh Mát-thêu, Ngài lại mở rộng và quốc tế hóa sứ vụ: “ Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ và loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Như vậy Chúa bắt đầu sứ vụ rao giảng cho nhà Israen để rồi sau đó là đến với người khác. Đây quả là một sự tiếp cận tuyệt vời trong sứ vụ truyền giáo.

Người phụ nữ Canaan là một trong những hình ảnh biểu tượng nhất của Kinh Thánh. Chị là người duy nhất trong bốn sách Tin mừng đã thắng cuộc tranh luận với Chúa Giê-su. Đối mặt với những người Pharisêu, Xa đốc hay những người La mã, Chúa Giê-su luôn luôn thắng cuộc tranh luận với họ và Ngài còn tránh được những cạm bẫy mà kẻ thù giăng ra đối với Chúa. Nhưng trước người phụ nữ Canaan này, Ngài đã phải thú nhận là bị chị thuyết phục. Người phụ nữ Canaan đáng thương này đã lấy hết can đảm sụp lại dưới chân Chúa Giê-su bất chấp bị mắng mỏ và hắt hủi. Nhưng thái độ này lại nói lên sự quyết tâm, sự khiêm nhường và niềm tin lớn lao làm cho Chúa Giê-su thán phục và thuyết phục Chúa thi ân giáng phúc, giống như niềm tin của viên bách quan người La mã.

Chúng ta hãy đọc lại dụ ngôn người Samaria nhân hậu, câu chuyện về bữa ăn với các người thu thuế, cuộc viếng thăm nhà ông Gia-kêu, giai thoại về người phụ nữ ngoại tình, bữa ăn chia sẻ với một người phong cùi, cuộc gặp gỡ với người phụ nữ samaria ở giếng Gia-cóp, hay những lời nói thiện ý của tên trộm lành cùng chịu đóng đinh với Chúa Giê-su…Những cầu chuyện đó cho thấy Chúa chống lại những phân biệt đối xử.

Thời của Chúa Giê-su cũng không hơn thời chúng ta hôm nay. Thế giới chúng ta cũng vừa trải qua biết bao nhiêu thế kỷ với những phân biệt đối xử có thể nói là tàn bạo nhất.

Như trong thế chiến thứ hai, vì phân biệt chủng tộc với người Do thái mà phát xít Đức đã tàn sát hàng triệu người Do thái. Họ dùng đủ mọi cực hình như tra tấn, bắn giết và cả những phòng hơi ngạt, và trại tập trung để tàn sát.

Ở Nam Phi cũng như ở nước Mỹ đã có không thiếu những phân biệt giữa người da trắng và người da màu. Những người da đen đã từng bị đối xử như những kẻ nô lệ, không có quyền sống bình đẳng với người da trắng…

Vậy có sự phận biệt đối xử nào còn tồn tại trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn mà chúng ta sinh hoạt, trong giáo xứ mà chúng ta là thành viên hay không?

Để chống lại sự phân biệt đối xử, thánh Phao lô cũng đã nêu rõ: “Giữa chúng ta không còn phân biệt nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà”. Trong sách tông đồ công vụ, thánh Phêrô cũng nói: “ “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”.

Có câu chuyện kể rằng trong cuộc nội chiến ở Mỹ, trước sự thắng thế của phe tổng thống Abraham Lincoln, các thân cận của ông đã nói với ông rằng: “Chúa đang đứng về phía chúng ta”. Nhưng đáp lại ông nói với họ trong một đức tin vững mạnh rằng: “anh em đừng nói rằng Thiên Chúa thuộc về phía chúng ta. Anh em hãy cầu nguyện sao cho chúng ta thuộc về Thiên Chúa thì tốt hơn”. Đặt mình thuộc về Chúa, tức là nhận tất cả mọi người như là anh chị em với nhau. Thánh Thomas cũng đã viết: “Ai có đức tin thì sẽ thấy tất cả với cái nhìn của Chúa”.

Sự cảm phục của Chúa Giê-su dành cho chị phụ nữ Canaan mời gọi mỗi chúng ta hôm nay suy tư về những sự phân biệt đối xử còn tồn tại trong lòng chúng ta và giữa chúng ta với nhau, để từ đó cũng xin Chúa chỉ dẫn cho chúng ta biết đón nhận và cộng tác với những anh chị em khác biệt với chúng ta. Amen.

Vội vã lên đường

Khi chúng ta đọc các sách Tin mừng và các sách của Tân Ước, chúng ta sẽ thấy các đoạn nói về Giáng sinh, Phục sinh, Lên trời của Chúa Giê-su và biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Nhưng không có đoạn nào nói về việc Đức Mẹ lên trời. Vậy ngày lễ mà chúng ta mừng kính hôm nay không được viết trong Kinh Thánh, cũng như là rút ra từ những nghiên cứu của các nhà thần học, mà chính là các Ki-tô hữu đã cử hành ngày lễ này. Họ không thể tin rằng Chúa Ki-tô phục sinh mà lại để cho thân xác của Mẹ mình ở nơi lòng đất được.

Đó cũng là lý do mà ngày lễ này đã được cử hành và thế kỷ thứ V trong Giáo Hội. Và ngày 01/11/1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời: “Chúng Tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác”. Khi công bố tín điều này là Ngài xác nhận truyền thống đã tin nhận về việc Đức Mẹ đi vào trong vinh quang thiên quốc cả hồn và xác.

Đây chính là một ngày lễ đặc biệt mà tất cả các ki-tô hữu được mời gọi mừng kính. Đáp lại lời mời gọi này như chúng ta thấy trong những ngày này mọi người già cả, lớn bé đều tụ họp nhau đông đảo trong các Đền Thánh dâng kính Đức Mẹ như ở Lộ Đức, Fatima, hay ở La Vang tại Việt Nam chúng ta, cũng như nhiều nơi hành hương khác. Tất cả mọi con cái Mẹ đều hướng về Mẹ để cầu xin Mẹ.

Với niềm sùng kính Mẹ Maria như thế mà các bài đọc Kinh Thánh hôm nay mang lại cho mỗi chúng ta những lời dạy quan trọng. Trước hết là bài đọc trong sách Khải huyền. Đây là câu chuyện đã được viết trong thời gian bách hại, nên đoạn văn được viết ra trong một ngôn ngữ biểu tượng mà chỉ các tín hữu mới hiểu được. Người phụ nữ được nói đến trong câu chuyện đại diện cho cộng đoàn do thái vẫn giữ niềm trung tín và đang mong đợi Đấng Messia. Người nữ này sẽ sinh ra người con như lời hứa, đấng sẽ cứu dân Người. Sức mạnh của thần dữ sẽ không có quyền năng gì trên Ngài. Quả vậy, Đức Giê-su Ki-tô phục sinh chính là Đấng Messia, là Đấng Chiến Thắng sự dữ và sự chết.

Bài đọc này được đọc trong ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác về Trời, cho thấy cái nhìn của tác giả muốn nhắm tới Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ đã sinh Đấng Cứu Thế cho loài người. Và cách nhiệm mầu Mẹ được hứa ban cho ngày gặp gỡ Thiên Chúa. Đó cũng là sứ điệp mà Thánh Phaolô đã gửi tới cộng đoàn Corintô trong bài đọc II. Thánh Phaolô nhấn mạnh về hoa quả đến từ sự phục sinh của Đức Ki-tô. Đức Ki-tô không sống lại cho riêng mình nhưng cho tất cả nhân loại. Bởi cái chết và phục sinh mà Đức Ki-tô đã đã mở ra cho chúng ta một sự vượt qua để tiến về Nước Trời. Mẹ Maria là hoa quả đầu mùa của những người sống lại. Mẹ đã tham dự cách hoàn hảo nhất vào sự sống lại của con Mẹ.

Biến cố thăm viếng trong bài Tin mừng của Thánh Luca mà chúng ta vừa nghe đã được chọn cho ngày lễ hôm nay là vì lời kinh tạ ơn mà Mẹ đã ca lên và chúng ta cũng được mời gọi hát lên với Mẹ. Như bà Êlisabét và như Mẹ Maria, chúng ta cùng cất lên lời tuyên xưng: phúc cho người đã tin. Mẹ Maria dạy chúng ta: để có đức tin, không chỉ là có những ý tưởng, những tín thác xuống mà con là “lập tức trỗi dậy và lên đường”. Chính Mẹ đã làm chứng cho một niềm tin nơi Chúa khi Mẹ đã từ bỏ tất cả cho Thánh Ý Chúa.

Điều làm chúng ta chú ý đặc biệt nơi Mẹ, đó là Mẹ đã vội vã lên đường tới nhà người chị họ. Trong Kinh Thánh, có một từ ngữ thường lặp lại, đó là từ ngữ “ lập tức”. Từ ngữ này cho thấy một khía cạnh khác của đức tin. Đó là sự đáp trả cho lời mời gọi của Chúa. Sự đáp trả ngay lập tức. Mẹ đã lập tức và lên đường vội vã. Hôm nay chúng ta kêu xin Mẹ và ngay lập tức Mẹ sẽ đến với chúng ta cùng với Chúa Giê-su trong Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ của chúng ta. Chính Đức Giê-su đã ủy thác vai trò này cho Mẹ khi nói với Gioan: đây là Mẹ con và với Mẹ Maria: đây là con Mẹ. Và qua Gioan, tất cả nhân loại đã được Chúa Giê-su trao phó cho Mẹ. Vậy chúng ta đừng ngại ngùng mà không mời Mẹ đến với mỗi chúng ta trong mọi giây phút của đời mình.

Vậy trong ngày hôm nay, chúng ta hãy trao phó cho Mẹ tất cả mọi gia đình, cách riêng những gia đình đang gặp khó khăn, thử thách và đau khổ. Chúng ta cũng xin Mẹ nâng đỡ và ủi an các nạn nhân của chiến tranh, khủng bố, nạn đói, thất nghiệp và những hoàn cảnh đau thương. Mẹ đã đứng dưới chân thập giá của Con Mẹ, nên Mẹ cũng ở bên tất cả những ai đang đau khổ. Với Mẹ và với Đức Giê-su, những cuộc viếng thăm của chúng ta sẽ mang Chúa Giê-su đến với những anh chị em xunh quanh.

Sau đây chúng ta sẽ bước vào phần phụng vụ Thánh Thể. Trong bí tích Thánh Thể, Chúa Giê-su cùng với Mẹ đến viếng thăm mỗi chúng ta. Chúa Ki-tô Thánh Thể đến và cự ngụ trong lòng chúng ta khi chúng ta đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Ước gì cuộc gặp gỡ này ban cho chúng ta tràn đầy niềm vui, hạnh phúc và bình an như trong cuộc gặp gỡ đã ban tràn đầy niềm vui cho Mẹ Maria và bà chị họ Elisabet. Amen.

Đừng sợ

Tất cả các nhà chú giải kinh thánh từ những thế kỷ đầu tiên đều thấy nơi con thuyền bị sóng và gió làm chao đảo, là biểu tượng cho Giáo Hội đang ở giữa cơn giông tố. Khi thánh Mat-thêu viết Tin mừng, các cộng đoàn Ki-tô hữu thực sự đang giống như chiếc thuyền đang chơi vơi trên biển do sự bách hại của đế quốc Roma. Các nhà cầm quyền Rôma trấp áp họ và các vị lãnh đạo tôn giáo do thái truy lùng họ nơi các hội đường. Cũng như xẩy ra những sự bất đồng giữa các cộng đoàn ki-tô giáo, giữa những tín hữu gốc do thái và gốc hy lạp.

Câu chuyện bão tố là một câu chuyện tràn đầy hình ảnh và biểu tượng, áp dụng cho những thời gian khó khăn thời thánh sử Mát-thêu cũng như những hoàn cảnh hiện tại của Giáo hội hôm nay. Ngày hôm nay, một lần nữa bão tố lại đến với chúng ta. Thế giới mà chúng ta đang sống bị bao trùm bởi chiến tranh, tranh chấp giữa các đảng phái chính trị, khủng bố, dịch bệnh, nạn đói, động đất, cháy rừng, lụt lội…các cănh bệnh đủ loại, kinh tế lạm phát, thất nghiệp, ma túy, mãi dâm, bạo lực, lạm dụng tình dục gia tăng. Giáo hội đang ở trọng một thời kỳ chậm tiến và có vẻ như đối diện với những vấn đề khó vượt qua: ví dụ như ngày càng ít người đi thờ đi lễ, ít người sống đạo, nhiều nhà thờ phải đóng cửa và con số linh mục ngày càng giảm sút.

Những khó khăn thử thách trên là những cơn giông tố mà Giáo Hội đang gặp phải. Và có vẻ như Chúa nhắm mắt bưng tai trước những gì đang xẩy trên thế giới này. Tuy nhiên thì chính Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ khi xưa rằng: Can đảm lên, Thầy đây, đừng sợ! Thầy ở đây cùng các con.”

Phêrô như là người đại diện cho tất cả chúng ta, đã làm một hành động dũng cảm khi xin Chúa Giê-su cho đi trên mặt biển để đến với Chúa, nhưng niềm tin của ông không đủ mạnh. Sự sợ hãi xâm chiếm ông và ông bị chìm xuống. Chúa Giê-su đã phải nói với ông: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Và Ngài đã phải đưa tay ra đỡ ông lên thuyền.

Thật là thú vị khi nói tới hoàn cảnh của Phê-rô lúc này, người đã hoài nghi và cố gắng bước đi trên biển động, người đã chối Chúa những lại là người được chọn làm thủ lãnh Giáo Hội. Phê-rô sẽ có nhiệm vụ “ củng cố anh chị em mình trong đức tin”. Điều đó muốn nói với chúng ta rằng niềm tin của chúng ta không dựa trên các vị lãnh đạo của Giáo Hội, là những người phàm và yếu đuối, nhưng là trên chính Đức Ki-tô, là Đấng trao ban bình an cho cộng đoàn ki-tô giáo trải qua những giông tố của cuộc đời.

Đức tin là một cuộc chiến đấu chống lại những nghi ngờ và sợ hãi. Phêrô, là người đầu tiên của những kẻ tin, không được chọn vì những phẩm chất cá nhân. Sau tất cả những tuyên xưng đức tin của Ngài, chúng ta thấy Ngài đã bỏ chạy khi Ngài đã chối Chúa Giê-su ba lần: tôi không biết người này. Giữa những nghi ngờ và sợ hãi, vị tông đồ cả hôm nay đã cầu nguyện năn nỉ: “ Lạy Thầy, xin cứu con với”. Cũng như là mỗi chúng ta, vị Giáo Hoàng đầu tiên đã có một niềm tin mong manh, đầy nỗi sự hãi. Tuy nhiên, khi Đức Giê-su ở với Ngài, khi Chúa cầm lấy tay Ngài, Ngài đã cảm thấy sự an toàn. Trong thế giới đang quay cuồng này, Đức Ki-tô cũng đang có đó ở giữa những con giông tố bão bùng, Ngài vẫn là nguồn mạch của sự bình an.

Trong một giây phút nào đó của đời sống, chúng ta không thấy tương lai, vì những thất bại, những căn bệnh hiểm nghèo, những tang tóc xẩy đến, những vấn đề gia đình và các khó khăn đủ loại. Trong bóng đêm đen như thế, chúng ta như đang ở trên con thuyền bị sóng đánh, dưới những cơn gió thổi ngược. Và Chúa Giê-su Ki-tô lại nhắc chúng ta: “ Thầy đây, đừng sợ, thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài luôn giang tay nâng đỡ chúng ta khỏi bị vùi dập bởi những cơn sóng lớn. Vào buổi tối thứ Năm tuần Thánh, chính Chúa đã nói với các môn đệ rằng: “Thầy đề lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con, nhưng thầy không ban cho các con bình an như thế gian ban tặng. Tâm hồn các con đừng xao xuyến và sợ hãi.”

Vậy mỗi Chúa nhật, chúng ta lại có dịp tụ họp nhau tại Nhà thờ để cảm nghiệm sự hiện diện này của Chúa Ki-tô trong đời sống chúng ta và mỗi chúa nhật, Ngài sẽ nhắc chúng ta điều mà Ngài đã nói với các tông đồ trên mặt biển giông tố rằng: Can đảm lên, Thầy đây, Đừng sợ! Amen.

Con Ta yêu dấu

Việc Chúa Giê-su đã biến hình trước mắt ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan là để nhằm tới lợi ích cho các ông trong hành trình theo Chúa. Ba người môn đệ thân tín này cũng đã có mặt trong lúc Chúa cầu nguyện trong vườn Cây Dầu trước khi bị bắt.

Thực tế là ông Phêrô lúc đó cũng muốn dựng lên 3 cái lều, như muốn kéo dài giây phút cảm nghiệm ngất ngây thay vì lại bắt đầu hành trình xuống núi bước theo Chúa Giê-su. Phản ứng nhất thời của Phêrô muốn tận dụng lâu hơn khoảng khắc yên bình trên núi thực ra là một cám dỗ trốn tránh ơn gọi của niềm tin để sống trong cái tầm thường của bản thân.

Trong hành trình của đời sống mỗi ngày, chúng ta cũng cần trải qua những kinh nghiệm của sự kiện biến hình trước những khó khăn và thử thách, để theo Chúa Giê-su trong những lúc vui hay những lúc lao nhọc, và góp phần mình làm biến đổi thế giới xung quanh chúng ta.

Mỗi Thánh lễ chúa nhật có thể là một trạm dừng dễ chịu với Chúa Giê-su trên núi. Nhưng mỗi lần thánh lễ kết thúc, mỗi chúng ta cần quay lại với cuộc sống thường ngày. Chúa Giê-su ban cho chúng ta sự can đảm cần thiết khi nói với chúng ta cũng như khi xưa nói với các tông đồ rằng: “ hãy trỗi dậy, và đừng sợ”. Hãy tin vào thầy vì thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Nhờ đó mà chúng ta yên tâm xuống núi để thực thi ơn gọi và công việc bổn phận của mình.

Hôm nay chúng ta đang sống trong thời đại mà mọi người tìm kiếm những gì là hoàn hảo trong thế giới vật chất với những quảng cáo mang lại hạnh phúc: với những đồ ăn thức uống hảo hạng, các loại thuốc bổ, các loại sơn hào hải vị, các siêu xe, du thuyền, nhà đẹp… Còn Đức Ki-tô lại đề nghị với chúng ta điều hoàn thiện trong tiến trình của những con người sống đức tin. Để đạt được sự hoàn thiện trong đời sống, chúng ta cần làm việc chuyên cần, sống kỷ luật và ý thức. Các sinh viên học sinh, các nghệ nhân, các nhà vô địch thể thao biết rõ điều này. Đó cũng là điều đối với những ai muốn trở nên tốt hơn. Mỗi chúng ta phải xuống núi, trở về với những đòi buộc thường ngày và làm việc không ngơi nghỉ để đáp lại đòi hỏi của thời đại hôm nay.

Trong mấy ngày qua, chúng ta có dịp chiêm ngưỡng Đức Thánh Cha Phanxicô, đã 87 tuổi và ngồi xe lăn khi di chuyển tại Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Lisbon và Fatima. Đức Thánh Cha được ví như “ Gừng càng già thì lại càng cay”. Thực vậy Đức Thánh Cha đã “trỗi dậy và lên đường” như Đức Mẹ Maria để đến với các bạn trẻ và hun đức cho các bạn trẻ một hành trình của tình yêu và hy vọng dù tuổi cao sức yếu.

Không nên phân biệt tuổi tác để hoàn thiện mình, nhằm khám phá ra vùng đất mà Chúa chỉ định cho mỗi chúng ta kính thưa… Tuy vậy lại có quá nhiều người hài lòng về một đời sống tầm thường, phản ứng tiêu cực mỗi khi có cơ hội: kiểu như tôi chỉ như vậy thôi và tôi quá già để thay đổi.

Tác giả Antony de Melo kể câu chuyện rằng: Có một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi thế giới này”.

Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu nguyện của tôi như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những người trong gia đình của con.”

Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con.”

Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”

Vâng, kính thưa… Với Thiên Chúa, không quá muộn để thay đổi lối sống, để trở nên tốt hơn. Trong Tin mừng, chúng ta gặp nhiều gương mặt cho thấy họ đã tạo nên câu chuyện biến đổi cho chính cuộc đời mình. Đó là câu chuyện của các người làm công giờ cuối cùng trong ngày, câu chuyện của ông Gia kêu, của tên trộm lành, của bà Maria Madalena, của ông Nicođêmô mà chúng ta đọc trong Tin mừng.

Kính thưa…Sự chiêm ngưỡng vinh quang thoáng qua mà Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan có trên núi Thabor đã để lại một kỷ niệm luôn mãi trong đời sống các ông. Và các ông sẽ kể lại trong nhiều dịp sau biến cố phục sinh như tông đồ Phêrô sau này làm chứng rằng: “không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Đức Ki-tô”.

Vậy yếu tố nền tảng của bài Tin mừng hôm nay là lời Chúa Cha nói: Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe lời Người”. Hành trình đời sống ki-tô hữu hệ tại ở việc lắng nghe Lời Chúa Giêsu, và để cho Lời Ngài vang vọng trong tâm hồn, nhờ đó mà được biến đổi. Mỗi tín hữu chúng ta là những người đang để mình lắng nghe, bằng việc chú ý nghe Lời Chúa Ki-tô, với sự nghiêm túc và để cho lời Chúa trở nên hiện thực trong đời sống mỗi chúng ta.

Mỗi Chúa nhật, qua bí tích Thánh Thể, chúng ta cùng hội họp để lắng nghe Lời Chúa Cha vang vọng thêm một lần nữa: Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy vâng nghe Lời Người. Xin cho Lời Đức Ki-tô thấm nhập vào tâm hồn chúng ta và biến đổi chúng ta nên những người con yếu dấu của Cha trên trời. Amen.

Khôn ngoan phân định

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN – NĂM A

Mỗi chúa nhật, Lời Chúa lại đến với chúng ta từ thời xa xưa, để chúng ta áp dụng vào trong hoàn cảnh hiện tại, để thích ứng Lời Chúa trong những nhu cầu mỗi ngày. Từ nhiều thế kỷ qua, các ki-tô hữu diễn giải các bài đọc Cựu Ước  và Lời Chúa Giê-su theo những nhu cầu từng thời đại. Điều này đòi hỏi sự khôn ngoan cần thiết để “biết rút ra từ kho tàng những cái cũ và mới”.

Chúa Giê-su không thay thế những bản văn cũ bằng các bản văn mới, nhưng Ngài lấy ra những cái còn giá trị trong Kinh Thánh, trong Lề Luật và các Ngôn Sứ” và thêm vào đó điều cần thiết cho sứ điệp của Ngài, và hướng về Nước Thiên Chúa.

Như Vua Salômôn trong bài đọc thứ nhất, ông chỉ xin Chúa ban cho sự khôn ngoan, thì môn đệ của Chúa Giê-su cũng là người xin Chúa ban cho một trái tim tràn đầy sự phân định, một trái tim khôn ngoan và thông thái”, một trái tim biết làm những điều cần và biết khám phá điều tốt trong quá khứ, và can đảm loại trừ những gì không cần thiết.

Có người lý tưởng hóa quá khứ và không muốn thay đổi bất cứ điều gì. Họ thích quay trở về quá khứ, trong cái mà họ gọi là “ thời xưa cũ tốt đẹp”. Nhưng thực ra thì ta không thể quay lại thời gian, và nỗi nhớ quá khứ chỉ có thể là một chướng ngại cho những đòi buộc cần thiết của hiện tại. Người khác thì lại vứt bỏ cái đã tồn tại thời trước và cho rằng nó cổ hủ, chẳng có giá trị gì. Khi loại bỏ sự khôn ngoan và kinh nghiệm của các bậc tiền bối, họ nghĩ rằng họ làm cách mạng, và muốn đưa mọi thứ trở về con số không. Họ đề cao ý riêng và cho những kinh nghiệm của mình mới đáng giá.

Cần phải biết bảo tồn những kho tàng truyền thống, cũng như can đảm biết từ bỏ cái không đáp ứng với nhu cầu hiện tại. Đó chính là ý nghĩa những lời nói của Chúa Giê-su: “rút ra điều mới” bắt đầu từ kho tàng truyền lại cho chúng ta.

Một ví dụ cho thấy tiến trình phân định là rất cần thiết, đó là khi chúng ta chuyển một ngôi nhà sang chỗ khác. Khi đó chúng ta phải quyết định cái gì giữ lại, cái gì phải chuyển đi. Vấn đề không phải là mang đi tất cả hoặc là cho hết vào sọt rác.  Trải qua năm tháng, chúng ta tích tụ đầy đồ dùng đôi khi không còn dùng tới, như tủ hòm, máy móc không còn phù hợp với căn nhà mới. Vậy chúng ta cần phải lựa chọn.

Cũng vậy trải qua đời sống chung, có những kho tàng không được coi trọng nhưng còn rất cần thiết cho đời sống hôm nay, và có những cách làm việc hoặc các truyền thống không còn lý do tồn tại. Vậy không cần phải loại bỏ hết nhưng thực hiện việc chọn lựa khôn ngoan và biết “ lấy từ kho tàng cái mới và cái cũ”.

Chúa Giê-su hôm nay mời chúng ta tái khám phá điều chính yếu của đời sống, cái gì tạo nên kho tàng thực sự cho chúng ta: “ cái gì có giá trị dưới mắt bạn? Đâu là kho tàng của bạn? Những ưu tiên của bạn là gì? Cái gì quan trọng thực sự đối với bạn? Chúng ta cần phải có một con tim biết phân định, một con tim hiểu biết và khôn ngoan” để biết cái gì cần bảo tồn và cái gì cần phải loại bỏ.

Tin mừng nêu lên một niềm vui to lớn của sự khám phá trong mỗi chúng ta, dụ ngôn khó báu mà chúng ta vừa nghe: “ Trong niềm vui, nhà lái buôn bán tất cả gia tài ông có để mua lấy thửa ruộng” Sự phân định này không nhằm mục đích phá hủy cho bằng gia tăng nghị lực, biến đổi tận căn và đem lại ý nghĩa cho đời sống chúng ta. Môn đệ của Chúa Giê-su không phải là người bị mất một điều gì nhưng là là người tìm thấy một cách sống mới mang lại niềm vui lớn lao hơn. Khám phá ra kho tàng ẩn giấu, là viên ngọc quý không có nghĩa là coi thường những thực tế khác của đời sống, nhưng là biết cách tương đối những thực tế này và đặt chúng vào vị trí trong bậc thang gia trị của đời sống.

Phân định giúp cho chúng ta khám phá điều có giá trị và giúp chúng ta tìm thấy những kho báu có giá trị thực sự của đời sống, là những kho báu mang lại ý nghĩa đích thực cho gia đình, cho công việc và cho sự hiện hữu của mỗi chúng ta. Sự khôn ngoan tin mừng này cho phép chúng ta “ rút ra cái mới từ những cái cũ”, khởi đi từ đời sống đức tin của chúng ta. Amen.

Lúa và cỏ lùng

Sự dữ vẫn là vấn nạn nặng nề hơn tất cả mọi vấn nạn, đối với con người biết suy tư là chúng ta. Có ai trong chúng ta mà không đối diện với sự dữ?

– Trong thân xác, do bệnh tật

– Trong con tim, do các tổn thương tâm hồn

– Trong lương tâm, do vết thương của tội lỗi

Trong gia đình, việc làm, do khó khăn của các tương quan con người.

– Trong thế giới, do những áp bức và bất công đủ loại.

Và cái chết đối với mọi người là điều không tránh khỏi.

Vậy tại sao lại có sự dữ trong thế giới?

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho chúng ta câu trả lời, đơn giản và rất rõ ràng. Chúa Giê-su trích dẫn lời dạy trong sách Sáng Thế như sau:

– Sự dữ không đến từ Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa chỉ gieo lúa tốt trong cánh đồng nhân loại

– Nhưng sự dữ không chỉ đến từ tâm lòng con người

– Sự dữ tồn tại trước và sâu thẳm hơn.

Đối với Chúa Giê-su, có điều thật rõ ràng là: con người tự mình là nạn nhân của thế lực được Chúa gọi là “ Kẻ Thù”, là “ Kẻ Xấu”.

Đằng sau những yếu đuối của chúng ta, ở cái gốc rễ của tội lỗi, có một sức mạnh mà chúng ta không làm chủ được và nó hoạt động trong chúng ta cách ngấm ngầm. Như trong dụ ngôn cho thấy:

“Lúa thì được gieo giữa ban ngày, còn cỏ lùng thì được gieo trong đêm đen khi mọi người đang ngủ”.

Sự dữ thấm nhiễm cách ngấm ngầm trong đời sống chúng ta, và làm cho chúng ta trở nên mù lòa, không thể nhận ra nó ngay tức khắc.

Chính Chúa Giê-su đã cho chúng ta nhận ra sự dữ. Ngài muốn khôi phục phẩm giá của mỗi chúng ta bởi vì dù mang thân phận yếu đuối và bất toàn, thì mỗi chúng ta vẫn có trong mình hình ảnh tốt lành của Thiên Chúa. Chính vì thế tội nhân trước hết chỉ là một nạn nhân thôi.

Chúng ta có xu hướng phân chia nhân loại thành hai loại: một bên là tốt, một bên là xấu. Chúa Giê-su lại không đồng ý với cái nhìn đơn giản quá mức này.

– Đối với Ngài, lúa tốt và cỏ lùng bị trộn lẫn như trong một mớ bòng bong không thể tháo gỡ.

– Nhân loại là một sự hòa trộn giữa cái tốt và cái xấu, giữa ân sủng và tội lỗi.

Đó có phải cũng là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta không? Trong con tim của mỗi chúng ta, mầm sống và mầm chết cùng tồn tại.

– Có những hành động bắt đầu trong tình yêu và kết thúc lại trong sự ích kỷ

– Có những việc làm quảng đại lại biến đổi thành chuyện kinh doanh và lợi nhuận.

“ Tôi không làm điều tốt tôi muốn, nhưng tôi lại làm điều xấu mà tôi không muốn”, Thánh Phaolô thú nhận như vậy trong thư gửi tín hữu Roma.

Vì sự mập mờ, hòa trộn giữa cái tốt và cái xấu hiện hữu nơi chúng ta mà trước hết chúng ta cần phải chống lại tất cả những phán xét nghiêm khắc và vội vã hãy quá vô tâm đối với người khác.

Trong dụ ngôn, cuộc đối thoại của những đầy tớ với ông chủ nhấn mạnh tới sự phát triển bất ngờ của cỏ lùng.

– Có thể ở đây các đầy tớ hỏi ông chủ là có phải cỏ lùng được gieo cách vô tình hay không?

– Và ông chủ, đã trả lời ngay lập tức: Các anh đừng nhổ chúng, vì lúa tốt sẽ bị ảnh hưởng.

Câu hỏi và câu trả lời dường như cho phép một sự lan tràn, một sự tăng trưởng sự sữ trong thế giới.

Nhưng quyết định của ông chủ cho thấy khi cấm nhỏ cỏ lùng, dường như ông chủ biết chắc việc mình làm: đó là khi mùa thu hoạch đến, lúa tốt sẽ được cho vào kho lẫm còn cỏ lùng sẽ bị thiêu đốt, chúng kết là sự thiện sẽ được tỏ bày.

Đối với Chúa Giê-su, sự lựa chọn, sự phán xét sẽ xẩy đến một ngày. Sự dữ không thể bóp nghẹt sự thiện.

Khi mà thế giới có vẻ đang bị xâm chiếm bởi một loại cỏ lùng của bóng đêm hỏa ngục,

– Thì Chúa Giê-su lại mời gọi chúng ta hướng về niềm hy vọng. Thiên Chúa sẽ dành chờ ngày phán xét. Khi chờ đợi, Ngài xin chúng ta đừng phán xét, đừng kết án anh em mình.

– Thiên Chúa là đấng giàu lòng kiên nhẫn. Ngài chịu đựng cỏ lùng trong lúc này: để mạc khải lòng thương xót vô bờ bến dành cho mỗi chúng ta.

Cùng với Chúa Giê-su, chúng ta hướng về Nước Thiên Chúa nơi mà sự dữ không còn tồn tại nữa, nơi mà chân lý, tình yêu, hạnh phúc vô biên ngự trị.

Và với hứa hẹn về kết quả chung cuộc của ngày cánh chung, chúng ta được mời gọi sống và làm việc mỗi ngày một tốt hơn, khi đặt tin tưởng vào Vị Thầy của Đồng Lúa, đó chính là Thiên Chúa Sáng Tạo, là Cha chúng ta. Amen.